TRANG CHỦ
    GỐM CỔ GÒ SÀNH
    BẢO TÀNG GỐM GÒ SÀNH
      - Gốm Thờ Tự
      - Gốm Ngự Dụng
      - Gốm Thương Mại
      - Hoạt động và sự kiện
    TƯ LIỆU VÀ NGHIÊN CỨU
    BÌNH ĐỊNH XƯA VÀ NAY
      - Võ Nghệ
      - Ẩm Thực
      - Văn Học
      - Âm Nhạc
    TỪ TRONG DI SẢN
    ẢNH GOSANH.VN
    VIDEO
    LIÊN KẾT
 Khách Thăm: 001174552
< d>
< d>
< d>
< d>
< d>
 
Miền gốm cổ Gò Sành
29.09.2007 19:50 - 4501

Xem hình
Nội thất bảo tàng gốm cổ Gò Sành-Ảnh Nguyễ Vĩnh Hảo
Gốm không xa lạ trong đời sống vật chất và tinh thần cộng đồng người Việt Nam. Thổ Hà mạnh về gốm men nâu chảy từ trong xương gốm ra tràn đầy lãng mạn; Bát Tràng nổi tiếng men sắc trắng vừa tinh tế vừa thực dụng; Phù Lãng nổi tiếng với men nâu thô mộc, chắc khỏe; gốm Chăm cổ Avamarati (vùng Quảng Nam) cũng thành danh với gốm gia dụng đất nung men nâu luôn gây cảm giác u hoài... Rồi gốm Đông triều, gốm Bình Dương, gốm Cây Mai, mỗi nơi một vẻ, một hồn thiêng.

Khoảng chục năm trước giới cổ vật sửng sốt nghe tin khai quật con tàu đắm ngoài khơi Cù Lao Chàm-Quảng Nam thu được hàng vạn hiện vật gốm cổ; người ta lần tìm nơi sinh ra chúng mới biết đó là Chu Đậu-Nam Sách, Hải Dương (thế kỷ XIV-XV) bị quên lãng hẳn trong lòng đất. Gần đây, lại thêm một bảo tàng tư nhân của Nguyễn Vĩnh Hảo trưng bày gốm cổ Gò Sành-Vijaya-Champa tại 173 Lê Hồng Phong -Quy Nhơn, Bình Định.

    Phần I Trầm tích miền gốm cổ 

       1.Gốm Gò Sành trong đổ nát, u hoài.     Nếu bạn đến vùng Vijaya xưa-nay là Bình Định, và đến khu vực Thánh địa Mỹ Sơn-Quảng Nam, chắc hẳn rằng bạn sẽ bị dẫn dụ, mê mẩn, rồi choáng ngợp, sửng sốt bởi cái đẹp độc đáo – cái đẹp không thông thường, rất lạ và sự tồn tại nhuốm màu thời gian hoài niệm của tháp cổ.

       Bạn cũng sẽ đau lòng, buồn bã thương cho nhiều tháp cổ đã thành phế tích bởi thời tiết, mưa nắng xâm thực, chiến tranh hủy diệt và cả sự xâm hại của con người u tối tham lam. Rợn ngợp, kính cẩn trước những tháp cổ uy nghiêm vươn lên trời xanh, thâm trầm đổ bóng xuống đất, màu trời gian lưu dấu…thì lại xót xa ngậm ngùi thương các nền móng, lô xô những đống gạch Chàm tháp cổ đổ nát, hoang tàn, rêu phong cỏ mọc. Đau đớn cùng tượng đá thần Shiva cụt đầu; nghe nói đã bị những người Pháp đập ngang cổ lấy thủ mang về chính quốc, thì cũng sẽ tiếc hoài những mặt Kala bằng đất nung trang trí bên ngoài đã bị người đời đánh thó. Các đồ thời tự bằng vàng, bạc, gốm từ hàng trăm năm trước bị vét nhẵn vào túi bọn người buôn đồ cổ và người ngoại quốc ranh mãnh.

         

       Nội thất bảo tàng gốm cổ Gò Sành-Ảnh Nguyễn Vĩnh Hảo

       Thật khó lòng tìm được gốm dù là một mảnh vỡ trong hoặc chân đền thờ, tháp cổ. Có thể người xưa ít dùng gốm trang trí trên tháp cổ, nhưng dứt khoát những tượng thần bằng gốm, đất nung, bình, lò, hũ đựng rượu…phải có trong lòng đền tháp để tế thần linh…Hiện nay, Nhà nước đang cố gắng trùng tu, nhưng cũng chỉ trả lại được một phần rất ít bóng dáng và giá trị thực tháp cổ.

       Kinh đô Trà Kiệu-Quảng Nam của vương quốc Champa xưa thành hoang phế trong lòng đất khiến người đương thời xót xa tiếc nuối những vương triều lụi tàn, chỉ còn giúp ích các nhà khảo cổ. Kinh thành Đồ Bàn của vương triều Vijaya –Champa thì nằm sâu dưới nền Thành Hoàng Đế Nguyễn Nhạc; rồi Thành Hoàng Đế lại bị Tử Cấm Thành, lăng Võ Tánh và các kiến trúc văn hóa khác thời Nguyễn (nay cũng là phế tích) ngự lên, chồng lên. Vậy là kinh quốc Champa đã bằn bặt lui về dĩ vãng quá xa; ngoài thạch bia, tháp cổ thì đã nhìn thấy, còn để tìm lại một góc hồ sơ văn hóa qua những đồ ngự dụng, dân dụng, thương phẩm dù là đá, là đồng là gỗ, là gốm…không phải là điều dễ dàng. Tất nhiên, vẫn còn một hướng tìm lại thời vàng son vương quốc Champa cổ trong lòng đất và có thể giải mã được phần nào văn hóa Chăm đã và đang mai một…

       Tháng 5.2007, tôi cùng các nhà văn tạp chí Văn nghệ Quân đội vào Tây Nguyên, sau đó xuống Quy Nhơn tổ chức Trại sáng tác văn học miền Trung và Tây Nguyên. Chúng tôi có một may mắn và bất ngờ khi đến thăm Bảo tàng tư nhân gốm cổ Gò Sành–Vijaya–Champa của ông Nguyễn Vĩnh Hảo ở 173 Lê Hồng Phong, thành phố Quy Nhơn. Chúng tôi bị chìm ngợp vào thế giới gốm cổ: mặt Kala,  chum, chóe, ghè, ang, vịm, vò, thạp, bình, đến tượng thần Siva, thần tửu, đầu sư tử, chim công, tượng Makala thủy quái ở biển cách điệu hình cá sấu, Linga, Yoni… Đi trong không gian màu đỏ hồng, nến sáng, hương trầm khói quyện bay lúc chập chờn ma quái như thể mình đang bị dẫn dụ châng lâng trên mây, lọt vào lòng tháp cổ tám trăm năm trước, lúc thẫn thờ đắm chìm vào không gian thực hư huyền ảo trong vương triều Chế Mân,Chế Bồng Nga… Quả thật, có thể tìm thấy một thế giới Chăm cổ qua dòng gốm Gò Sành ngay giữa lòng thành phố biển Quy Nhơn gió lộng.

       Nhưng trước khi có một “vương quốc gốm cổ Gò Sành” ở thành phố biển Quy Nhơn hiện đại thì người ta đã biết hoặc nghi ngờ về một dòng gốm Hời-gốm Chàm xứ Gò Sành thời Vijaya-Bình Định từ lâu rồi. Các nhà khảo cổ học Việt Nam trong các năm 1991, 1992, 1993 (từ 1994, 1997…có thêm các học giả Nhật Bản và Bỉ) đã tiến hành khai quật ở vùng Gò Sành-An Nhơn–Bình Định, thu được nhiều hiện vật gốm men, hoa văn in chìm nổi rất độc đáo, phong phú sinh động có niên đại thế kỷ XII-XIV.  

       Tất nhiên, các nhà khảo cổ đến Gò Sành vẫn đi sau bom Mỹ. Khoảng đầu năm 1974, Bình Định vẫn là vùng chiến tranh liên miên ác liệt, tương quan chiến trận ở tình thế ngày Ngụy, đêm Cách mạng. Hai bên chiếm đóng địa bàn quân sự hình thành thế da báo. Dù tương tàn đến cỡ nào chăng nữa thì con người vẫn cứ phải sống, phải tồn tại; ai làm ăn vẫn phải làm ăn, ai chạy loạn thì cứ chạy loạn. Cho đến “một ngày định mệnh đen tối” 24.2.1974, bom Mỹ táng xuống vùng Gò Sành, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, Bình Định, vô tình “khai quật” lòng đất làm lộ diện hàng ngàn mảnh vỡ và dấu vết lò gốm cổ.

       Người ta đồn thổi đi xa và thêu dệt bao nhiêu huyền thoại khi lòng đất phát quang; thậm chí có người bất chấp bom đạn giặc giã cả gan mò mẫm đến các hố bom còn khét lẹt mùi khói, mùi tanh tưởi súc vật, mùi người chết thảm …hôi của.

       Bằng trực cảm khá nhanh nhạy và tinh tường, ”Ông Hội đồng tỉnh” Nguyễn Hượt – nhà buôn đồ cổ đã không bỏ qua cơ hội ngàn vàng, đến ngay Gò Sành, nhặt nhạnh, chọn gom những mảnh vỡ gốm Chàm cổ có giá trị theo quan niệm cá nhân; tại đây cụ còn phát hiện thấy dấu vết của lò gốm cổ. Ai là chủ nhân của dòng gốm này? Người Hoa (Tống) di cư hay người Chăm bản địa? Có phải ở dòng gốm cổ men ngọc (màu ngà-bạch định hơi ngả màu tối) được sản xuất đó là của người Hoa và chỉ người Hoa mới sản xuất nổi?…Những câu trả lời không dễ, cần ngẫm nghĩ nghiêm túc trước khi kết luận.

       Ngay từ thời đó, Gò Sành đã là một cái tên (định danh) cho dòng gốm cổ này; có người gọi là gốm Chàm, cụ Nguyễn Hượt gọi là Gốm Hời…Hóa ra, trong dân gian vẫn lưu dùng một dòng gốm cao cấp màu ngà nhưng tối hơn gốm Tống và người ta thường gọi là gốm Tống bạch định (còn gọi là men ngọc hay là men celadon) lại có xuất xứ sản xuất từ Gò Sành-An Nhơn-Bình Định.

       Trở lại các cuộc khai quật của giới khảo cổ cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, người ta đã phát hiện hơn 20 lò gốm ở Gò Sành, và không còn nghi ngờ gì nữa: có một dòng gốm cổ sản xuất tại Gò Sành đã được khẳng định trong giới chuyên môn. Trước đó và gần đây, người ta cũng tìm thấy gốm cổ nguồn gốc Gò Sành có mặt nhiều nơi trên thế giới. Một hướng lý giải tương đối hợp lý: có lẽ ngày xưa vương quốc Champa cổ nằm trên trục hàng hải giao lưu giữa Trung Quốc, Đại Việt với các nước Đông Nam Á biển đảo, Ấn Độ và Tây Á; các thương thuyền vượt đại dương thường vào cảng Hội An, Thị Nại làm bến đỗ lấy nước ngọt, đồ ăn, mua thêm hàng hoá bán kiếm lời. Những sản vật quý như ngà voi, tê giác, đồi mồi, thổ cẩm, đồ vàng bạc, và tất nhiên đồ gốm không thể qua mắt thương nhân tinh tường lão luyện nghề. Vậy là gốm hành trình đến các nơi xa lạ mà chủ nhân sinh ra nó cũng chưa bao giờ đặt chân đến, thậm chí chưa bao giờ nghe địa danh. Gốm cổ Gò Sành đã có mặt trong một số bảo tàng, gia đình quý tộc nước Anh, trong lòng đất di chỉ Juffa –Vương quốc Ả rập thống nhất, bán đảo Sinai-Ai Cập, trong các thuyền đắm ở biển đông nam Trung Quốc, tàu Pallawan đắm ở ngoài khơi Philippin; ở đảo Triman-Malaysia. Gốm Gò Sành còn bỏ lẫn với đồ gốm Trung Hoa trong con tàu đắm ngoài khơi Brunei, ở di chỉ Dazaifu -đảo Kyushu-Nhật Bản, trong di chỉ mộ táng ở Santa Ana, bán đảo Calatagan-Philippin…

       Những phát hiện này củng cố thêm nhận định: Một xứ gốm vùng hạ lưu sông Kôn xuất hiện cách đây từ gần 8 thế kỷ. Gốm ra lò, lên thuyền xuôi theo dòng sông Kôn ra cảng Thị Nại. Thương nhân ngoại quốc dừng chân ở cửa Cách Thử, cảng Thị Nại và làm nên “con đường của gốm” trên biển. Huyền thoại về cuộc dừng chân của Trịnh Hòa – nhà thám hiểm, nhà hàng hải Trung Quốc, một trong những người khai sinh “con đường tơ lụa” nổi tiếng trên đường Tây Dương, đã dừng bước ở Thị Nại cùng 60 chiếc thuyền…vẫn lưu giữ ở Minh sử và lưu truyền trong dân gian. Ai mà biết được nhà hàng hải danh tiếng nay đã mang theo bao nhiêu gốm Gò Sành về nước dâng lên Minh Thành tổ?

       Ngoài dấu vết xưa cũ hơn 20 lò gốm ở Gò Sành, người ta cũng tìm thấy các thân xác lò gốm tàn hoang ở các “gò” khác như gò Hời, gò Cây Ké, Trường Cửu,…nằm dọc hai bên bờ sông Kôn chảy ra cảng Thị Nại; và ở gò Cây Me…quanh khu vực thành Đồ Bàn, thành Cha…Gốm Gò Sành còn đi xa hơn, đến các vùng trong nước như Phố Hài-Bình Thuận, Đại Làng-Lâm Đồng; ở con thuyền ngoài khơi Cù Lao Chàm-Quảng Nam…

       Khoảng đầu năm 2005, một nhóm thanh niên nông dân xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, Quảng Nam “ngậm ngải tìm trầm” cả tháng trời đói khát khổ ải, bệnh tật ở rừng Kon Tum và vận may đã đến, họ tìm được hơn 100kg kỳ nam tại suối Nước Bơ, Ngọc Tem, huyện Kom P’long. Tin đồn vang xa hàng đoàn người từ ven biển miền Trung lũ lượt kéo lên rừng Kon Tum tìm vận may đổi đời. Trong số những người hy vọng làm lại thân phận từ trầm ấy, có Đoản Thanh Chương và Nguyễn Đăng Vinh. Hai anh không tìm thấy một “vảy” trầm nào, nhưng lại phát hiện ra nhiều gốm cổ khá nguyên vẹn lẫn với nhiều mảnh vỡ chôn sâu trong lòng đất rừng Tây Nguyên. Đây là loại gốm trơn, không hoa văn, họa tiết, không vòi, không nắp; rõ ràng được sản xuất bằng phương pháp thủ công và xương gốm bằng đất sét. Ai là chủ nhân sản xuất ra dòng gốm này? Căn cứ vào các đặc điểm, tính chất…và niên đại, theo nhà sưu tập Nguyễn Vĩnh Hảo: chắc chắn đó là gốm Hời, còn gọi là gốm Chăm được sản xuất ở Gò Sành.

       Có khả năng đó là các vật dụng của người lên ngàn tìm trầm mang theo, khi xong công việc rút về quê người ta không mang theo về nữa. Hoặc khi diễn ra các cuộc chiến tranh liên miên với các nước láng giềng - người ta vẫn lưu truyền về các cuộc giao tranh đẫm máu giữa người Chàm vương quốc Vijaya với người Khmer vương quốc Cao Miên, thì Kon Tum – rộng ra là địa bàn Tây Nguyên rừng thiêng là nơi sơ tán di tản người Chăm, họ mang theo đồ gốm để dùng. Đây có thể là một di chỉ cần được khai quật, nghiên cứu; các nhà khảo cổ nên để mắt đến vùng rừng sâu non cao này.

  Nội thất bảo tàng gốm cổ Gò Sành - Ảnh Nguyễn Vĩnh Hảo

2. Ai là chủ nhân gốm Gò Sành?           

       Gốm cổ Gò Sành được sản xuất trên vùng đất của người Chăm thì không ai bàn cãi. Nhưng ai là chủ nhân gốm Gò Sành thì vẫn đang đi tìm câu trả lời thích đáng.

       Lâu nay, người ta vẫn cho rằng gốm Gò Sành là sản phẩm của dân Tống lưu vong. Năm 1271, Nam Tống rên siết dưới vó ngựa bách chiến bách thắng của quân Nguyên Mông, dân Tống chạy loạn khắp nơi; tất nhiên trong số người chạy giặc ấy cũng có các nghệ nhân gốm tài hoa gạt nước mắt bỏ quê bỏ đất, bỏ nghề về phương nam. Có những người hoang mang lo sợ, không yên tâm với vó ngựa Nguyên Mông  đã chiếm gần hết châu Á và một phần châu Âu, chạy mãi xuống tận Đại Việt. Sử gia Đại Việt đã từng chép sự kiện 1274: ”Mùa đông, tháng mười, người Tống sang quy phụ. (Trước đó, nước Tống ở mé Giang Nam, người Nguyên thường hay lấn đánh. Đến đây họ đem 30 thuyền biển chở đầy của cải và vợ con, vượt biển đến La Cát Nguyên. Đến tháng 12 dẫn về kinh, an trí ở phường Nhai Tuân, họ xưng là người Hồi Kê. Người nước ta gọi người Tống là Kê Quốc…)”.

       Người Hồi Kê? Hay Hồi Cốt, Hay Hồi Hột, Hồi Hoạt? Thực chất họ là tộc người Higrur, còn gọi là người Duy Ngô Nhỉ ở phía Tây Bắc (vùng Tân Cương – Trung Quốc ngày nay). Họ chính là dân Tống chạy nạn, tự nhận là người Kê để tránh quân Nguyên. Cùng  thời, một bộ phận người Tống lưu vong vùng Vijaya-Bình Định; Họ chăm chỉ làm, đem theo nghề cũ phát triển trên quê nhà mới nhất là dệt lụa, buôn bán và sản xuất đồ gốm. Gò Sành là một trong những nơi người Tống đặt chân đến và hành nghề gốm. Người ta so sánh gốm Tống định và gốm cổ Gò Sành có nhiều nét tương đồng, duy chỉ có màu men gốm Gò Sành hơi tối. Có lẽ là do chất đất?

       Cuối thế kỷ XIV, có một con đường gốm sứ trên biển do các thợ gốm, thương nhân người Hoa gốm tạo nên. Người Hoa đi khắp các vùng Đông Nam Á xây dựng nhiều trung tâm gốm ở các nước biển đảo này.

       Các nhà nghiên cứu Alison Diem, tiến sỹ Roxanna Brown người Mỹ, cố giáo sư-tiến sỹ Trịnh Cao Tưởng, tiến sỹ Lê Đình Phụng, nhà nghiên cứu Kerry Nguyễn Long cho rằng: Gốm Gò Sành bắt đầu từ cuộc di dân của người Minh (1364) tạo nên con đường gốm sứ và kết thúc vào năm 1471 khi vương quốc Vijaya suy tàn. Sau các lần khảo cổ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI ở Gò Sành, các nhà nghiên cứu Nhật Bản cho rằng niên đại gốm cổ Gò Sành bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII-XIV và kết thúc vào cuối thế kỷ XV (khoảng năm 1471, khi vương quốc Vijaya hết vai trò lịch sử); cũng có thể kéo dài đến thế kỷ XVIII.

       Lại có cuộc di dân trước đó mà ít người nhắc đến; xảy ra vào năm 1127 khi nước Kim (Đông bắc Trung Quốc ngày nay) tấn công Bắc Tống, bắt hoàng đế Khâm Tông; triều đại Bắc Tống bị diệt vong; người Tống chạy nạn xuống phương Nam thành lập Nam Tống. Trong số sống lưu vong ấy có nhiều người thợ gốm phiêu bạt xuống tận Đại Việt và vương quốc Vijaya.

       Nhà sưu tập Nguyễn Vĩnh Hảo cho rằng: ”Gốm Gò Sành đã có từ cuộc di dân đầu tiên-di dân Bắc Tống năm 1127 và kết thúc vào thế kỷ XVIII.”

       Giai đoạn đầu (cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIV), gốm cổ Gò Sành là do dân Tống lưu vong sản xuất. Nhưng giai đoạn tiếp theo từ suốt thế kỷ XIV, XV là do người Chăm học được kỹ thuật gốm của người Tống và tự họ sản xuất. Người Chăm có thể làm việc trong các lò gốm người Tống lưu vong, nhưng sau này rất có thể từ địa vị làm thuê họ học được nghề và làm chủ lò gốm? Nhưng từ thế kỷ XVI, XVII do dân Việt theo chúa Nguyễn mở đất, họ học được tinh hoa làm gốm của người Chăm và tiếp tục sản xuất; có lẽ vì thế mà sản xuất gốm Gò Sành tồn tại đến thế kỷ XVIII. Có thể tìm thấy dấu ấn hồn vía người Việt qua một số món đồ gốm Gò Sành.

       Có một sự thật lịch sử là: Khi  quân Nguyên đi đường thủy đánh Champa chiếm một số vùng đất ven biển, có những người dân Tống lưu vong “nhớ nước thương nòi” nhưng quên thù cũ lại lá mặt lá trái, phản bội dân Chăm, họ chỉ điểm nơi chúa Chăm ẩn nấp để quân Nguyên vây bắt khiến người Chăm tức giận giết không biết bao nhiêu người Tống ăn cháo đái bát. Điều này không được ghi trong thạch bi Champa nhưng tìm thấy trong Tống sử. Vì vậy, liệu người Tống lưu vong ở Gò Sành-Bình Định có cùng chung số phận? và nếu không xảy ra chuyện này thì người Tống đến nơi ”đất khách quê người” lánh nạn, coi đất mới là quê hương, một nhóm người Tống lạ nước lạ cái dù ý thức hay không cũng sẽ bị người Chăm đồng hóa lúc nào không hay. Kỹ thuật gốm chỉ còn chuyện nhỏ và người Chăm làm gốm ở Gò Sành cũng là điều tự nhiên bình thường. Tất nhiên đây chỉ là suy đoán,liên tưởng.

       Theo nhà sử học Tạ Chí Đại Trường thì “người Chăm cho đến nay không biết đến bàn xoay để làm vò, hũ, nồi, trã, nói chi đến đồ sành cao cấp”. Nhà sử học dẫn ra: ”Anh trung sỹ ở đơn vị tôi chỉ vác cuốc ra các ụ mối ngoài đồng đem về làm một mớ đất sét rồi bỏ đó cho bà vợ với chú bé chập chểnh bên nhau, đập ụ đất, nhào trộn nước, nắm từng khoanh đất sét tròn đặt lên một cái bệ gỗ, tự mình đi quanh từng vòng, từng vòng nhỏ to chồng làm nên một cái nồi, cái ấm, cái trã, cái tách…đem cất ở khoảng êm mát nào đó trong nhà rồi đi nấu cơm, dệt vải. Một ngày làm vài cái, để đó đến khi chỗ chứa đã chật thì đem ra chỗ đất trống quơ củi đốt, khói bay mù trời.”.

       Chuyện vợ anh trung sĩ người Chăm làm gốm mà nhà sử học Tạ Chí Đại Trường dẫn ở trên có thể là đúng, nó là gốm gia dụng thì chỉ cần kỹ thuật thô sơ và lối sản xuất “tiểu nông “ tự cung tự cấp. Thế còn gốm ngự dụng – gốm cao cấp (các đồ gốm dùng trong vương triều và tầng lớp Chăm quý tộc)? Và đồ gốm thờ tự trong các đền tháp? Chẳng lẽ chỉ có gốm người Tống lưu vong ở Gò Sành làm ra? Tại sao chúng ta không nghĩ đến các xưởng gốm cung đình do thợ Chăm chuyên làm gốm phục vụ cho tầng lớp Chăm thượng lưu và đồ tế tự?

       “Những gì của gốm Chu Đậu hãy trả về cho gốm Chu Đậu“, chỉ đến lúc khai quật di chỉ Chu Đậu và tìm thấy gốm cổ Chu Đậu trên con tầu đắm ngoài khơi Cù Lao Chàm thì người ta mới thực sự thấy hết cái nhầm lẫn tai hại coi dòng gốm Chu Đậu men lam là gốm được sản xuất từ các lò gốm nhỏ bé vô danh ở miền Nam Trung Quốc. Vậy đã có tiền lệ giải mã. Cũng một điều nữa cũng cố lòng tin “Gốm Gò Sành của người Chăm” là nhận dạng hồn vía dân tộc Champa ở gốm Chăm. Nhiều “nhà gốm học“ xem gốm cổ Gò Sành trong nhà trưng bày của Nguyễn Vĩnh Hảo, đã bắt gặp thần thái người xưa neo giữ trên gốm cổ. Một chút thâm trầm, u hoài của màu nâu đỏ gạch tháp; một thế giới huyền ảo của tín ngưỡng, của thần linh có nét tương đồng với văn hóa cổ sông Hằng - Ấn Độ. Những nét đặc sắc này chẳng thể tìm thấy, và không bao giờ cảm thụ được từ gốm Tống định.

       Các triều đại trước hưng lắm rồi cũng đến lúc suy. Gốm Gò Sành cũng có thời phát triển rực rỡ suốt cuối thế kỷ XIII, hết thế kỷ XIV sang thế kỷ XV đã là niềm tự hào của vương quốc Vijaya cổ, nhưng rồi nó cũng bị khuất lấp, gián đoạn và hết thời. Phải chăng nó chấm dứt sự tồn tại vào năm 1471 khi vương quốc Vijaya tan hoang bởi chiến tranh và người thợ gốm Gò Sành cũng chịu chung số phận của đất nước. Người Việt lưu dân kéo dài lịch sử gốm Gò Sành đến cuối thế kỷ XVIII, nhưng gốm cũng chịu chung nỗi đau tương tàn. Đó là thời của những đau thương: Năm 1798, khi vương triều Tây Sơn sụp đổ, nền kinh tế vùng hạ lưu sông Kôn cũng sa sút và khủng hoảng theo vì sự thanh trừng, đàn áp, tàn phá của nhà Nguyễn. Cũng có thể đất trời thay đổi, dòng sông lấp, hoặc dòng chảy rẽ hướng, sự biến động địa mạo nơi Gò Sành?

       Sự lụi tàn của gốm Gò Sành chỉ là liên tưởng, giả định. Nhưng có một sự thật rõ ràng: Gốm cổ Gò Sành được sản xuất trên đất người Chăm - vương quốc Vijaya – Bình Định.

       Sau người Tống là người Chăm và người Việt chủ nhân gốm Gò Sành.

3. Hồn người trong gốm cổ      

       Người Chăm làm gốm độc đáo và nhàn tản không giống ai. Gốm đất nung màu đỏ au là nét đặc sắc của gốm Chăm. Ví như: xứ Gò Sành làm các mặt Kala, người ta mang đất sét phụ thêm chất phụ gia với tỉ lệ nhất định bằng kinh nghiệm đúc kết qua thời gian, nhào kỹ thuật không dính tay thành một khối dễ cắt, bẹo, nặn; rồi tạo hình theo ý muốn sẳn có, theo tưởng tượng mới, xong đem phơi khô và cuối cùng là đem xếp vào lò đốt lửa thành gốm.

         Nội thất bảo tàng gốm cổ Gò Sành-Ảnh Nguyễn Vĩnh Hảo

       Vật liệu đầu tiên của gốm Chăm là đất sét đỏ hoặc trắng (còn gọi là caolin), sau đó là củi khô đượm hoặc bổi và men. Vùng Phù Mỹ, ven đầm lớn, lưu vực sông La Tinh, sông Kôn có nhiều mỏ đất sét, trữ lượng vô cùng lớn. Kỹ thuật làm đất rất công phu, đòi hỏi sự kiên nhẫn của người thợ càng trầm tĩnh, điềm đạm thì làm đất càng kỹ. Người ta lấy đất sét từ mỏ về ủ lọc tạp chất. Sau đó gia giảm phụ gia, nguyên liệu tạo men là các khoáng chất Titan, nhôm, sắt, hóa chất từ thực vật. Từ nặn đất tròn vòng (nặn bộ, thủ công) đến bàn xoay là bước tiến diệu kỳ của kỹ thuật sản xuất gốm; người thợ Chăm tạo dáng gốm trên bàn xoay, những ẩn dụ bắt đầu từ lúc đất lên bàn xoay hoặc trước đó. Người thợ trang trí gốm có thể vẽ chìm trên xương gốm lúc còn ướt, sau đó phủ men lên hoặc in khuôn tạo hoa văn rồi dán vào phôi gốm; cũng có thể in trực tiếp lên gốm rồi phủ men lên. Cũng có khi người ta dùng khuôn in (sản xuất hàng loạt). Ở Bảo Tàng tổng hợp Bình Định đang lưu giữ một khuôn in gốm Gò Sành, men màu đã được Kerry Nguyễn Long giới thiệu trên tạp chí Art of Asia số 9+10 năm 1998. Ông Nguyễn Vĩnh Hảo cũng đang lưu giữ một khuôn in nữa to hơn hai ngón tay - khuôn in gốm Chăm chìm cánh sen và dáng tháp được cánh điệu. Chất liệu làm khuôn in này từ đất sét Gò Sành, có men bạch định, màu trắng xanh hơi tối, vài chỗ đọng men đậm màu xanh.

       Lò gốm Chăm thường là hình ống tường lò bằng đất nện, có bầu đốt, chỗ tiếp lửa, cuối lò là ống thoát khói. Các đồ gốm cao cấp bao giờ cũng được đặt trong bao thơi trước khi nung để gốm chín đều, giữ đúng màu, không bị tro bụi bám, không bị sẹo…Về cơ bản gốm Chăm đều dùng vật liệu qua các bước, các loại kỹ thuật như thế, nhưng gốm tốt hay xấu lại do kỹ thuật và hồn vía người tạo dáng, trang trí, tình cảm người thợ đốt lửa. Theo nhà sưu tập Nguyễn Vĩnh Hảo: Người Chăm mạnh về đất nung- gốm không men. Sở dĩ gốm cổ Gò Sành chất lượng rất cao, sang trọng, sinh động có hồn như thế là có sự kết hợp: Cách mạng lửa (kỹ thuật người Tống) + Hồn vía người Chăm.

       Trước khi người Tống lưu vong sang vương quốc Vijaya thì người Chăm đốt lò lửa nung gốm mới được khoảng 600 độ nên sản phẩm chỉ là đất nung và gốm gia dụng. Người Tống lưu vong có mặt ở Vijaya thì lửa nung gốm mới vượt ngưỡng 1000 độ và sản phẩm là gốm cao cấp gồm đồ ngự dụng, đồ tế tự, đồ thương phẩm.

       Có thể nói: Đến được với thế giới cổ vật Chăm ám dụ, linh thiêng là đến với không gian vô hình giao tâm ngưỡng vọng của con người với linh thiêng. Mỗi cổ vật gốm Gò Sành không chỉ là đất nung qua lửa - vật thể hữu hình được dùng vào các mục đích khác nhau mà còn là hồn người thợ gốm gửi gắm dù vô tình hay cố ý. Hồn người được tinh đúc qua bàn tay người thợ tài hoa vào đất, vào lửa. Lửa làm nên màu gốm, dong đất Bình Định cũng làm nên màu gốm, nơi đồng chua váng phèn, nơi bạc màu nắng gió, chỗ đỏ nâu gạch Chàm…được hun lại, đúc lại. Một chút lặng lẽ bình yên của đất ngàn, một khối dữ dội cuồng phong của biển, một đời trải nghiệm, buồn vui, tình cảm, tâm hồn con người ký thác vào gốm, hóa thân vào gốm. Thời gian cũng tạo nên màu của gốm, càng cổ xưa càng lung linh sống động, định màu ổn sắc. Nhưng mấy ai hiểu được lòng gốm? Giá trị đích thực chỉ có được trong con mắt xanh người tinh tế am tường chiều sâu văn hóa dân tộc.

                                    (Còn tiếp phần2 : Vĩnh Hảo gốm Gò Sành)



Sương Nguyệt Minh (Theo Văn Nghệ Quân Đội số 678)



 Bản để in  Lưu dạng file  Gửi tin qua email


Những bản tin khác:
Lạ quá Gốm Gò Sành [29.09.2008 08:07]



NHỚ MẮM
VÌ SAO BAO TÀNG THIẾU SỨC SỐNG
KIẾN TRÚC TRE VIỆT NAM ĐƯỢC VINH DANH TẠI MỸ
QUÊN NGƯỜI
BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỚI QUẢ TIM BẤT DIỆT.
Mắm ruột mà quệt cà giòn...
BIỂN & NỖI NHỚ!
Tản văn cho biển
Nhìn lại nền âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ 20
TAM QUAN TRONG KIẾN TRÚC VIỆT
Bình thơ: Vua và em - Trần Viết Dũng
Rằm giêng hát bội Phò An
Để “mọi quyền hành, lực lượng đều nơi dân”
"Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên"
Người Bình Định và làng Việt tại Pleiku


© Copyright 2007 - 2024 Gosanh.vn 
BẢO TÀNG GỐM CỔ GÒ SÀNH VIJAYA - CHAMPA - BÌNH ĐỊNH
Địa chỉ: khu du lịch Bãi Dại - phường Ghềnh Ráng - T/P Quy Nhơn - Bình Định.
Điện thoại: 84.0913472778 - 84.0946940666. Email: museum@gosanh.vn